([i]) Trong đó nông - lâm nghiệp - thủy sản đạt 1.547,67 tỷ đồng, tăng 283,7 tỷ đồng so với năm 2015, tốc độ tăng bình quân 4,13%; công nghiệp - xây dựng 1.114,21 tỷ đồng, tăng 488,9 tỷ đồng so với năm 2015, tốc độ tăng bình quân 12,25%; dịch vụ - thương mại hơn 955,98 tỷ đồng, tăng 409,3 tỷ đồng so với năm 2015, tốc độ tăng bình quân 11,83%.
([ii]) Cây lương thực 10.744,80 ha, cây chất bột lấy củ 1.884,47 ha, cây thực phẩm 3.024,96 ha, cây hằng năm 628,50 ha, cây lâu năm 14.383,89 ha, cây dược liệu 150 ha, cây dâu tằm 91,20 ha.
([iii]) Có 16 hợp tác xã hoạt động có hiệu quả trên lĩnh vực nông nghiệp có liên doanh, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản và cung ứng dịch vụ.
([iv]) Chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP được triển khai bước đầu có kết quả tích cực, với 4 sản phẩm được tỉnh xếp hạng đạt 3 sao. Sản phẩm: Viên Tinh Nghệ Đỏ, mật ong, sữa ong chúa AGILA; Sản phẩm: Sầu riêng Hợp tác xã Đại Ngàn; Sản phẩm: Rượu Đinh Lăng; Sản phẩm: Tinh Bột Nghệ Đỏ AGILA…
([v]) Xây dựng cánh đồng lớn đối với cây lúa, cà phê, hồ tiêu; diện tích một số loại cây trồng chủ lực như cây cao su, cà phê, hồ tiêu trên 11.871ha (trong đó, diện tích cây cao su 7.789,3 ha, cây cà phê 2.555 ha, cây hồ tiêu là 1.526,77 ha).
([vi]) 5 chuỗi liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị: gồm liên kết cây nhãn Hương Chi 112 ha, 270 hộ; liên kết sản xuất lúa J02 100ha, 120 hộ; liên kết sản xuất nghệ sạch 15 ha, 30 hộ; liên kết sản xuất dâu tằm tơ 43,3ha, 116 hộ; liên kết sản xuất Mít thái 15ha, 27 hộ. Xây dựng dự án phát triển cây có múi thuộc Chương trình Nông thôn miền núi với tổng kinh phí 10 tỷ đồng cho 20ha cam CS1, 10 ha bưởi đỏ Hòa Bình trong giai đoạn 2019-2022. Đến nay đã trồng được 30ha, gồm: 20ha cam CS1, 10ha bưởi đỏ Hòa Bình.
([vii]) Trong đó, đàn dê phát triển mạnh, đàn heo phát triển quy mô theo hướng trang trại, công nghệ cao. Với nhu cầu và lợi thế của địa phương, chăn nuôi dê thực sự được người dân quan tâm, phát triển đàn, mang lại thu nhập bền vững cho người dân, năm 2015 đàn dê chỉ có 2.470 con, qua 5 năm đã tăng lên 15.762 con. Bên cạnh đó, năm 2010 các hộ dân chỉ mới chăn nuôi heo theo hình thức hộ gia đình, nhưng đến nay đã có 05 trang trại nuôi gia công heo thịt theo hướng công nghệ cao thường xuyên có trên 1.000 con; 05 cơ sở chăn nuôi heo thịt với tổng đàn từ 100 đến 500 con. Đàn trâu 514 con, đàn bò 25.745 con, đàn heo 25.850 con, đàn dê 19.303 con.
([viii]) Trong đó vốn ngân sách nhà nước là 377,58 tỷ đồng; Nhân dân đầu tư, đóng góp đạt 82,557 tỷ đồng; vốn tín dụng 145,36 tỷ, chiếm 17,7%; vốn doanh nghiệp và các tổ chức khác 1.964,3 tỷ đồng.
([ix]) 6 xã được công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới: Xã Ia Phang, xã Ia Blứ, Ia Hrú, Ia Le, Ia Rong, Ia Dreng; 6 thôn, làng được công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới: Kênh Săn, xã Ia Le; Tao Kó, Ia Rong, Thơ Nhueng, Ia Phang, Tung Blai, xã Ia Dreng, Hòa Lộc và Briêng, xã Ia Phang.
([x]) Từ năm 2016 đến cuối năm 2019 đã tổ chức 44 cuộc họp tuyên truyền với 2.850 lượt người tham gia, 30 đợt tuyên truyền lưu động.
([xi]) Trong đó: diện tích trồng rừng trong quy hoạch là 807,25 ha, diện tích trồng rừng ngoài quy hoạch 286,4 ha, diện tích trồng cây phân tán 240,8 ha.
([xii]) Chợ xã Ia Hrú, chợ thị trấn xã Nhơn Hòa, chợ xã Ia Le, chợ xã Ia Blứ, chợ xã Ia Hla.
([xiii]) Toàn huyện có 35 trường (giảm 02 trường so với năm 2015) với 600 lớp (giảm 16 lớp so với năm 2015) với 19.667 học sinh (tăng 478 học sinh so với nhiệm kỳ trước), trong đó học sinh dân tộc thiểu số là 10.136 em. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu giáo đạt 99,8% (tăng 4,3% so với nhiệm kỳ trước); tỷ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100% (không tăng, không giảm so với nhiệm kỳ trước); tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi bậc Tiểu học đạt 99,6% (tăng 0,1% so với nhiệm kỳ trước), bậc Trung học cơ sở đạt 96,4% (tăng 9,4% so với nhiệm kỳ trước), tỷ lệ học sinh lớp 9 vào học Trung học phổ thông đạt 79,3% (không tăng, không giảm so với nhiệm kỳ trước). Tổng mức đầu tư 81.867 triệu đồng để xây dựng 02 nhà đa năng, 7 nhà hiệu bộ, 2 nhà bộ môn, 01 trường phổ thông dân tộc bán trú, 88 phòng học đi kèm 1.760 bộ bàn ghế. Ngoài ra, xây dựng 03 bể bơi thông minh, mua sắm trang thiết bị cho 10 trường mẫu giáo...
([xiv]) Sáp nhập trường Tiểu học Kim Đồng và Nay Der thành trường Tiểu học Kim Đồng, chuyển đổi 01 loại hình trường Tiểu học Trần Hưng Đạo thành trường Tiểu học và Trung học cơ sở Trần Hưng Đạo; sáp nhập trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi và Tiểu học Ngô Quyền thành Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi; mẫu giáo Họa Mi và mẫu giáo Hoa Hồng thành mẫu giáo Họa Mi; chuyển đổi loại hình trường Tiểu học Kpă KLơng thành Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Kpă KLơng, trường Trung học cơ sở Ama Trang Lơng thành trường Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở Ama Trang Lơng; có 9/12 trường mầm non tổ chức ăn bán trú.
([xv]) Bố trí một điểm truy cập miễn phí với số lượng lưu trữ hơn 800 mô hình khoa học - công nghệ.
([xvi]) Cắt dán 3.500 m băng rôn, khẩu hiệu; sửa chữa mới 2.000 tấm panô; Đội thông tin lưu động phục vụ cơ sở 250 buổi; hoạt động thể thao đã tổ chức 27 giải thi đấu; tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao cấp huyện, tham gia Đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh đạt kết quả cao. Sản xuất 756 chương trình phát thanh, 480 chương trình truyền hình, 120 chuyên mục an toàn giao thông; 240 chuyên mục pháp luật. Gửi 60 chuyên mục phát thanh, 60 chuyên mục truyền hình, 1.046 tin phát trên đài tỉnh.
([xvii]) Đến cuối năm 2020 có 67/74 thôn, làng văn hóa (sau khi chia tách, sáp nhập), đạt 90%; có 13.500 hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa (tăng 3.000 gia đình so với năm 2015); 65/98 công sở văn hóa, đạt 66,32%.
([xviii]) Đến cuối năm 2020 tỷ lệ hộ được nghe đài Tiếng nói Việt Nam và xem truyền hình đạt 100%.
([xix]) Huyện giải quyết 61 hồ sơ đề nghị hỗ trợ đột xuất với số tiền 280 triệu đồng, hỗ trợ 518.495 kg gạo cứu đói cho 6.807 lượt hộ/31.947 khẩu; hỗ trợ tiền điện cho 2.353 lượt.
([xx]) Mở 21 lớp dạy nghề theo nhóm nghề nông nghiệp, đến nay có trên 400 lao động đi xuất khẩu lao động; 4.480 lao động được giải quyết việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 33,92% (cao hơn năm 2015 là 9,04%).
([xxi]) 100% hộ nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế trên 95%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 18,1%, tỷ lệ trẻ em tiêm chủng đủ liều đạt 97%; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội trong độ tuổi lao động là 4,6%.